Được thành lập vào năm 1636 bởi Cơ quan Lập pháp Thuộc địa Vịnh Massachusetts và không lâu sau đó đặt theo tên của John Harvard - người đã hiến tặng của cải cho trường, Harvard là cơ sở học tập bậc cao lâu đời nhất Hoa Kỳ.
Được thành lập vào năm 1636 bởi Cơ quan Lập pháp Thuộc địa Vịnh Massachusetts và không lâu sau đó đặt theo tên của John Harvard - người đã hiến tặng của cải cho trường, Harvard là cơ sở học tập bậc cao lâu đời nhất Hoa Kỳ.
Harvard có hai cơ quan quản trị là
). Hai cơ quan này có thẩm quyền bổ nhiệm Viện trưởng Viện Đại học Harvard. Viện trưởng đương nhiệm là Drew Gilpin Faust. Hiện Harvard có chừng 16.000 giảng viên và nhân viên,
trong số đó có chừng 2.400 giảng viên.
Trong sáu năm vừa qua, tổng số sinh viên Harvard nằm trong khoảng từ 19.000 đến 21.000. Harvard có 6.655 sinh viên trong các chương trình bậc đại học, 3.738 sinh viên trong các chương trình sau đại học, và 10.722 sinh viên trong các chương trình chuyên nghiệp sau đại học.
Sinh viên nữ chiếm 51%, 48%, và 49% trong tổng số sinh viên bậc đại học, sau đại học, và chuyên nghiệp.
Trường Đại học Harvard nhận 27.500 đơn xin vào học khóa tốt nghiệp vào năm 2013, 2.175 được nhận (chiếm 8%), và 1.658 theo học (76%).
95% sinh viên năm nhất từng nằm trong 10 sinh viên đứng đầu khóa ở trường trung học.
88% sinh viên tốt nghiệp trong vòng 4 năm, 98% tốt nghiệp trong vòng 6 năm.
Đối với khóa sẽ tốt nghiệp đại học vào năm 2017, Trường Đại học Harvard chỉ nhận có 5.8% trong số các ứng viên nộp đơn.
Khuôn viên chính của Harvard rộng 209 mẫu Anh (85 ha), trung tâm là Harvard Yard ở thành phố Cambridge, nằm cách khu trung tâm thành phố Boston chừng 3 dặm (4,8 km) về phía tây-tây bắc, và mở rộng ra khu Quảng trường Harvard ở chung quanh. Khu Harvard Yard có các tòa nhà hành chính và những thư viện chính của viện đại học, các khu học tập bao gồm Sever Hall và University Hall, Nhà thờ Memorial, và phần lớn các cư xá dành cho sinh viên năm nhất. Các sinh viên năm hai, ba, và tư sống trong 12 khu nhà nội trú; chín trong số này nằm ở phía nam Harvard Yard, dọc theo hoặc gần sông Charles, ba khu nhà còn lại vốn trước đây dành cho sinh viên Trường Đại học Radcliffe nằm trong khu dân cư cách Harvard Yard chừng nửa dặm về phía tây bắc ở khu Tứ giác (Quadrangle).
Trường Kinh doanh Harvard và nhiều trong số những cơ sở thể thao của viện đại học, bao gồm Sân vận động Harvard, nằm trong một khuôn viên rộng 358 mẫu Anh (145 ha) nằm ở khu Allston, đối diện với Cambridge bên kia sông. Cầu John W. Weeks là cầu đi bộ bắc qua sông Charles, kết nối hai khuôn viên. Trường Y khoa Harvard, Trường Nha khoa Harvard, và Trường Y tế Công cộng nằm ở một khuôn viên rộng 21 mẫu Anh (8,5 ha) ở Khu Học thuật và Y khoa Longwood, cách trung tâm Boston chừng 3,3 dặm (5,3 km) về phía tây nam và cách khuôn viên chính ở Cambridge chừng 3,3 dặm (5,3 km) về phía nam.
Ngoài những khuôn viên chính ở Cambridge, Allston, và Longwood, Harvard còn sở hữu và điều hành Vườn Bách thảo Arnold (Arnold Arboretum), ở khu Jamaica Plain của Boston; Trung tâm Lưu trữ và Thư viện Nghiên cứu Dumbarton Oaks (Dumbarton Oaks Research Library and Collection) ở
; Trạm Thực nghiệm Concord (Concord Field Station) ở Estabrook Woods,
và trung tâm nghiên cứu Villa I Tatti
, Ý. Harvard cũng điều hành Trung tâm Harvard Thượng Hải ở Trung Quốc.
Tại Harvard có các cơ sở thể thao như Lavietes Pavillion, một vận động trường đa năng và là sân nhà của các đội bóng rổ của Harvard. Trung tâm Thể thao Malkin (MAC) vừa là tiện nghi thể dục thể thao phục vụ sinh viên của trường vừa là cơ sở vệ tinh cho các cuộc thi đấu liên trường. Tòa nhà năm tầng của MAC có hai phòng tim mạch, một hồ bơi tiêu chuẩn
, một hồ bơi nhỏ cho môn thể dục nhiệp điệu dưới nước và các môn khác, một tầng lửng dành cho các lớp học suốt cả ngày, một phòng tập xe đạp trong nhà, ba phòng tập
, và ba sân tập thể dục có thể sử dụng để chơi
. MAC cũng cung cấp dịch vụ huấn luyện cá nhân và các lớp học đặc biệt. MAC là sân nhà của các đội
Weld Boathouse và Newell Boathouse là địa điểm tập luyện của các đội chèo thuyền nam và nữ. Đội chèo thuyền nam cũng sử dụng khu phức hợp Red Top ở Ledyard,
làm trại huấn luyện cho Harvard-Yale Regatta, cuộc đua thuyền hằng năm giữa Harvard và Yale khởi đầu từ năm 1852. Trung tâm Hockey Bright là sân nhà của các đội
của Harvard, còn Trung tâm Murr dành cho các đội
), và là trung tâm chăm sóc sức khỏe cho vận động viên tất cả các môn thi đấu.
, Harvard có 41 đội thi đấu trong Bảng 1 liên trường (đại học), đứng đầu danh sách các đại học thuộc Bảng 1 của Hiệp hội Thể thao Đại học Quốc gia (NCCA).
, tất cả các cuộc tranh tài giữa hai trường này đều quyết liệt, cao điểm là các cuộc thi đấu bóng bầu dục mùa thu mỗi năm, khởi đầu từ năm
, trở nên nổi tiếng đến nỗi khi nhắc đến nó người ta chỉ đơn giảin gọi là "trận đấu". Dù không còn được xem là đội bóng số một như một thế kỷ trước đây (từng đoạt giải Rose Bowle năm
), Harvard và Yale đã ảnh hưởng đáng kể trên phong cách thi đấu của giải.
Lâu đời hơn giải Rose Bowl đến 23 năm là Harvard-Yale Regatta, các cuộc thi đấu giữa Harvard và Yale đều bắt nguồn từ giải này. Cuộc đua thuyền Harvard-Yale Regatta tổ chức hằng năm vào tháng Sáu trên sông Thames phía đông tiểu bang Connecticut. Đội Harvard được xếp vào một trong các đội chèo thuyền hàng đầu của quốc gia. Trong các môn thể thao khác, các đội thi đấu của Harvard cũng ở trong nhóm đầu như môn hockey trên băng (đối thủ chính là
), bóng quần, mới đây Harvard giành các danh hiệu vô địch môn đấu kiếm nam và nữ của NCAA. Harvard cũng giành ngôi vô địch của Hiệp hội Đua thuyền Liên Đại học năm
Trong số những nhân vật nổi tiếng nhất từng theo học ở Harvard có những chính khách Hoa Kỳ như John Hancock,
, các thủ tướng Canada Mackenzie King và Pierre Trudeau; các doanh nhân và nhà từ thiện Aga Khan IV và
; nhà từ thiện Huntington Hartford; các tổng thống Mexico
Carlos Salinas de Gortari và Miguel de la Madrid; tổng thống Chi-lê
; tổng thống Costa Rica José María Figueres; tổng thống Đài Loan
và chủ tịch Tối cao Pháp viện Israeli Aharon Barak; tổng thống Peru Alejandro Toledo; thủ tướng Albania Fan S. Noli; tổng thư ký Liên Hiệp Quốc
và William S. Burroughs; nhà giáo dục Harlan Hanson; nhà thơ Wallace Stevens,
; danh cầm violon Yo Yo Ma; danh hài Conan O'Brien; các diễn viên Fred Gwynne, Jack Lemmon,
, Mira Sorvino, Ashley Judd, Tatyana Ali, Elisabeth Shue, Rashida Jones, Scottie Thompson, Hill Harper,
; đạo diễn Darren Aronofsky, Mira Nair, Whit Stillman, và
; các nhạc sĩ Rivers Cuomo, Tom Morello, và Gram Parsons; nhà soạn nhạc Ryan Leslie; người sáng lập Facebook
; danh thủ bóng bầu dục Ryan Fitzpatrick; danh thủ bóng rổ
; và lãnh tụ dân quyền W. E. B. Du Bois.
thành đạt là cựu sinh viên Harvard có ông
(Tiến sĩ Kinh tế, 1954), cựu Phó Thủ tướng
kiêm Thống đốc Ngân hàng Quốc gia tại
; Phó Bá Long (Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh, 1956), cựu Khoa trưởng Phân khoa Chính trị Kinh doanh,
(Tiến sĩ Lịch sử Đông Á và Ngôn ngữ vùng Viễn Đông, 1978), giáo sư
(Tiến sĩ Luật, 1993), cựu Phụ tá Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ;
(tham gia khóa đào tạo và nghiên cứu ngắn hạn vào năm 2004), cựu tổng biên tập báo
. Hội Sinh viên Việt Nam tại Harvard (HVA) thành lập từ đầu thập niên 1990 nhằm thúc đẩy sự quan tâm lẫn nhau, tinh thần cộng đồng, và học biết nhiều hơn về văn hóa Việt.
Nhờ có vị trí trung tâm trong giới tinh hoa nước Mỹ, Harvard thường được chọn làm bối cảnh cho nhiều tác phẩm văn học, kịch nghệ, điện ảnh cũng như trong các lĩnh vực văn hóa khác.
, cựu sinh viên Harvard và là giáo sư môn văn chương cổ điển ở
, viết về mối tình lãng mạn giữa một sinh viên luật Harvard con nhà dòng dõi (do Ryan O’Neal thủ diễn) với một nữ sinh viên âm nhạc vào Radcliffe nhờ học bổng (Ali MacGraw). Cả cuốn tiểu thuyết và cuốn phim đều thấm đẫm những hình ảnh thơ mộng của Cambridge.
Trong những năm gần đây, ở Harvard vẫn có lệ mỗi năm cho chiếu phim
vào dịp đón tiếp tân sinh viên. Các tác phẩm khác của Erich Segal như
) cũng có các nhân vật chính là sinh viên Harvard.
Harvard cũng xuất hiện trong nhiều xuất phẩm điện ảnh ở Mỹ như
được dựng thành phim với bối cảnh Harvard thập niên 1960 cho đến phim
, Harvard không cho phép quay phim bên trong các tòa nhà; hầu hết các cảnh quay đều thực hiện tại những địa điểm có khung cảnh giống Harvard như ở
, Trường Đại học Wheaton, hay Viện Đại học Bridgewater State, mặc dù cảnh quan ngoài trời và các cảnh quay từ trên cao khuôn viên Harvard ở Cambridge vẫn thường được sử dụng.
có những cảnh quay trước Thư viện Widener của Harvard nhưng không chịu sử dụng sinh viên Harvard làm diễn viên quần chúng vì trang phục của họ trông "không giống Harvard".
Cảnh quay lễ tốt nghiệp trong phim
thực hiện tại trước Thính phòng Foellinger của
Nhiều cuốn tiểu thuyết lấy bối cảnh Harvard hoặc có các nhân vật chính liên quan đến Harvard. Robert Langdon, nhân vật chính trong các tác phẩm
được miêu tả là "giáo sư môn nghệ thuật biểu trưng" (mặc dù "nghệ thuật biểu trưng" –
- không phải là tên chính xác của bất kỳ môn học nào).
Pamela Thomas-Graham, nhân vật chính trong một bộ tiểu thuyết trinh thám (
. Trong số các tiểu thuyết nổi tiếng có nhân vật chính là sinh viên Harvard phải kể đến cuốn
của Elizabeth Wurtzel. Cựu nhân viên
của Douglas Preston cũng là cựu sinh viên Harvard.
Tượng John Harvard, ở Harvard Yard
, sách hướng dẫn của Baedeker gọi Harvard là "học viện lâu đời nhất, giàu nhất, và nổi tiếng nhất ở Mỹ." Hai chi tiết đầu đến nay vẫn còn chính xác; nhưng chi tiết thứ ba thì đang bị tranh cãi.
Đến năm 2007, Harvard vẫn đứng đầu trong tất cả bảng xếp hạng các viện đại học trên thế giới của
cũng xếp Harvard đầu bảng "các viện đại học trong nước".
Tuy nhiên, Harvard cũng là mục tiêu của không ít chỉ trích, bị phê phán về tình trạng lạm phát điểm số giống các cơ sở giáo dục đại học khác.
Sau những chỉ trích từ các phương tiện truyền thông, Harvard hạn chế hạng danh dự từ 90% trong năm 2004 xuống còn 60% năm 2005, và tỏ ra chọn lọc hơn khi được ban tặng các danh hiệu danh dự "John Harvard Scholar" cho nhóm 5% đầu lớp và "Harvard College Scholar" cho nhóm 5% kế cận – với điểm trung bình tối thiểu là 3.8.
Quỹ Carnegie Thúc đẩy Hoạt động Giảng dạy, tờ
, và một số sinh viên lên tiếng chỉ trích Harvard đã phụ thuộc vào các trợ giảng trong một số môn học trong chương trình cử nhân; theo họ, điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến chất lượng đào tạo.
Một bài viết đăng trên tờ New York Times cho thấy tình trạng này cũng phổ biến tại một số viện đại học thuộc
cho đăng kết quả khảo sát của Consortium on Financing Higher Education (COFHE) đối với 31 viện đại học hàng đầu,
trình bày những vấn đề như tính sẵn sàng của ban giảng huấn, chất lượng giảng dạy, chất lượng tham vấn, đời sống xã hội ở trường học, và tình cảm cộng đồng kể từ năm 1994. Tờ
cũng đưa ra những phê phán tương tự.
, Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard là Benedict Gross tỏ ra quan tâm đến các vấn đề COFHE đã nêu, và hứa sẽ cải thiện tình hình.
Cựu viện trưởng Viện Đại học Harvard là Larry Summer nhận xét, "Tôi nghĩ vấn đề quan trọng duy nhất là mối quan hệ giữa ban giảng huấn và sinh viên, chúng ta đã để quá nhiều sinh viên cao học tham gia giảng dạy. Các lớp học quá đông đến nỗi giảng viên không biết tên sinh viên. Ít người có cơ hội trải nghiệm phương pháp học tập tích cực như vào phòng thí nghiệm, thảo luận trong lớp, đối thoại tại các hội nghị chuyên đề, hoặc làm việc theo nhóm trong văn khố."
Giấy phép xuất bản số 110/GP - BTTTT cấp ngày 24.3.2020 © 2003-2024 Bản quyền thuộc về Báo Thanh Niên. Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.
Ngày 8/4, khái niệm học giả Harvard Yenching Institute (HYI) trở thành chủ đề nóng trên mạng xã hội, cũng như trong giới học thuật. Nó là gì? “Visiting scholar” (học giả) khác “post-doc” (nghiên cứu sau tiến sĩ) ở chỗ nào? Chương trình này có liên quan Trung Quốc không?
TS Trần Vinh Dự (thứ hai từ trái sang) theo học chương trình tiến sĩ tại UT-Austin theo học bổng do HYI cấp. (Ảnh: T.V.D)
Từng du học bằng học bổng của HYI
Cách đây 21 năm, tôi là giảng viên khoa Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà Nội. Thời điểm này, tôi thi xong TOEFL (607 điểm) và GRE (2040 điểm), chuẩn bị tìm trường nộp hồ sơ học tiến sĩ (Ph.D.) ở Mỹ.
Những người từng có ý định du học đều biết chi phí đắt thế nào. Lúc đó, tôi chẳng có xu nào cả. Việc xin đi du học hoàn toàn dựa vào kiếm học bổng.
Kiếm học bổng chủ yếu có hai nguồn. Thứ nhất, xin đi làm ở trường dưới dạng trợ giảng hoặc trợ lý nghiên cứu; thứ hai, xin chỗ nào họ cho mình tiền.
Lúc đó, kiếm mãi không ra lựa chọn số hai, tôi chỉ dựa vào lựa chọn thứ nhất, xin làm việc trực tiếp những trường mình nộp hồ sơ. Dĩ nhiên, tôi hiểu xin như thế, cơ hội được các trường này nhận sẽ ít hơn. Nếu có chỗ khác cho tiền sẵn, việc xin học dễ hơn.
Một hôm đi làm, tôi thấy thông báo dán trên tường về học bổng đào tạo sau đại học của Harvard Yenching Institute. Thấy có học bổng, tôi nghiên cứu HYI là gì để nộp đơn.
Mấy tháng sau khi nộp đơn, tôi nhận được thông tin từ HYI, thông báo thời gian lên văn phòng ĐH Quốc gia Hà Nội, gặp đại diện của HYI phỏng vấn trực tiếp.
Lúc đó, tôi rất hồi hộp. May mắn, tôi có dịp gặp GS Ngô Vĩnh Long hàng tuần, được ông dạy bảo nhiều, bao gồm cả chuẩn bị về mặt tinh thần cho các cuộc phỏng vấn kiểu này.
Người phỏng vấn tôi là giám đốc chương trình học bổng của HYI, một người Mỹ da trắng đứng tuổi. Ông ấy phỏng vấn tôi trong khoảng một giờ. Câu chuyện khá lôi cuốn nên tôi không có cảm giác đó là một cuộc phỏng vấn. Hết giờ, ông bắt tay tôi và nói sẽ có kết luận sau mấy tháng.
Khoảng đầu tháng 4/2001, tôi nhận được thư của 5 trong số 6 trường tôi nộp hồ sơ. Bốn trường đồng ý cho học và cho làm thêm để có tiền. Một trường (ĐH Rochester) từ chối. Tôi không hào hứng lắm với 4 trường đồng ý nhận mình. ĐH Texas ở Austin (UT-Austin) chưa trả lời mà thời gian khá trễ, tôi nghĩ khả năng trượt lớn.
Đúng lúc đó, tôi lại nhận được thư chúc mừng từ HYI. Từ chỗ có HYI cấp học bổng, qua sự hỗ trợ của TS Nguyễn Quốc Toàn (lúc đó đang là nghiên cứu sinh ở ĐH New York), tôi liên hệ với UT-Austin một cách đầy tự tin. Mấy ngày sau, trường gửi thư đồng ý nhận tôi vào học. Tháng 8/2001, tôi lên đường sang Mỹ du học.
Viện Harvard Yenching nằm trong khuôn viên ĐH Harvard và 3 trong số 9 thành viên hội đồng quản trị của viện là đại diện từ Harvard. (Ảnh: The Harvard Gazette)
Harvard Yenching Institute - Viện Harvard Yenching - có khuôn viên tọa lạc trong ĐH Harvard. Giám đốc đương nhiệm là GS Elizabeth J. Perry, GS ngành Chính trị của ĐH Harvard.
Hội đồng Quản trị của HYI gồm 9 thành viên, với 3 đại diện của ĐH Harvard, 3 đại diện của Hội đồng vì Giáo dục sau phổ thông Công Giáo tại châu Á (một tổ chức phi chính phủ ở New York, Mỹ) và 3 thành viên độc lập có hiểu biết sâu rộng về châu Á.
Harvard Yenching không phải là đơn vị do ĐH Harvard sở hữu. HYI có thể hiểu là tổ chức thiện nguyện hoạt động độc lập, có ngân sách độc lập. Nhưng HYI là một phần không tách rời của cộng đồng Harvard. Hiểu nôm na, HYI là dự án độc lập mà Harvard có tham gia với tư cách thành viên sáng lập.
HYI không phải một khoa hay viện đào tạo và không cấp bằng. Trong lịch sử, HYI làm nhiều việc như hỗ trợ thành lập Khoa nghiên cứu về ngôn ngữ và văn minh Á Đông của ĐH Harvard, thư viện Harvard Yenching của ĐH Harvard, tạp chí nghiên cứu Harvard Journal of Asiatic Studies... hỗ trợ trực tiếp cho nhiều trường đại học ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Tuy nhiên, từ những năm 50 của thế kỷ XX trở lại đây, HYI tập trung việc tài trợ học bổng cho các nghiên cứu sinh tiến sĩ và các giáo viên trẻ thuộc các trường đại học hàng đầu ở Đông và Đông Nam Á ra nước ngoài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn.
Tới nay, hơn 1.200 giảng viên và hơn 600 nghiên cứu sinh đã được HYI hỗ trợ, trong đó, 400 tiến sĩ và thạc sĩ đã tốt nghiệp dưới sự tài trợ của HYI.
Tôi không biết chính xác có bao nhiêu trong số 400 người này là tiến sĩ. Nhưng tôi là một người trong số đó, sản phẩm được đào tạo ra dưới sự chi trả của HYI.
Cần nói rõ với các chương trình tài trợ này, HYI không đào tạo mà là đơn vị cấp học bổng/ngân sách. Những người nhận tài trợ sẽ học tập và làm việc tại các cơ sở đào tạo khác nhau.
Ví dụ, tôi học và tốt nghiệp từ UT-Austin, nhưng dưới sự tài trợ của HYI. Vì thế, việc một học giả đi theo diện "visting scholar" do HYI tài trợ và làm việc trong thời gian này ở ĐH Harvard ghi vào hồ sơ là "visiting scholar" của Harvard là chuyện bình thường.
Website của HYI cũng ghi rất rõ: “Chương trình này trao cơ hội cho các giảng viên trẻ trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn có 10 tháng nghiên cứu độc lập tại ĐH Harvard”.
HYI lấy tiền từ đâu, có liên quan Trung Quốc?
HYI là quỹ tín thác công ích được thành lập từ năm 1928 với nguồn tài trợ thuần túy từ tài sản của một người đã mất năm 1914 - nhà khoa học Charles Martin Hall.
Ông Hall là nhà khoa học, nhà sáng chế, đồng thời là “đại gia” thời đó với tài sản có được nhờ thành lập công ty luyện kim Alcoa. Công ty này hiện giờ niêm yết trên sàn chứng khoán Mỹ.
Ông Hall mất lúc 51 tuổi và không có vợ con thừa kế. Tài sản của ông để lại theo di chúc được dùng cho mục đích thiện nguyện. Harvard Yenching được thành lập dựa hoàn toàn trên nguồn ngân sách đến từ khối tài sản này.
Nhưng sao lại là châu Á, đặc biệt là có chữ Yên Kinh (Yenching) nghe có vẻ liên quan Trung Quốc?
Ông Charles M. Hall dĩ nhiên không phải người châu Á, càng không phải người Trung Quốc và cũng không làm ăn ở Trung Quốc. Viện Harvard Yenching được thành lập sau khi ông qua đời 14 năm.
Chữ Yenching đến từ một người da trắng khác - nhà truyền giáo, nhà giáo dục, TS John Leighton Stuart (1876-1962). Ông Stuart dành phần lớn phần đời ở Trung Quốc hoạt động truyền đạo Công giáo và làm giáo dục. Có thời, ông còn là Đại sứ của Mỹ tại Trung Quốc (1946 đến giai đoạn nội chiến giữa ĐCS và Quốc dân đảng). Stuart được coi là tượng đài trong quan hệ Mỹ - Trung trong giai đoạn lịch sử đó.
Ông cũng là người sáng lập ĐH Yên Kinh (Yenching University), và là chất xúc tác để hình thành Harvard Yenching Institute tại ĐH Harvard năm 1928. Chính HYI trong giai đoạn đầu cũng tham gia hỗ trợ trực tiếp ĐH Yên Kinh và 5 trường đại học khác ở Trung Quốc và một trường ở Ấn Độ.
Như vậy, dù có chữ Yên Kinh và có nguồn gốc lịch sử liên quan quan hệ Mỹ - Trung từ thời đầu thế kỷ XX, HYI là quỹ tín thác của Mỹ, hoạt động hoàn toàn từ ngân sách đóng góp dựa trên tài sản của nhà khoa học Charles Martin Hall để lại.
Tôn chỉ mà HYI vận hành là nghiên cứu và hỗ trợ nghiên cứu, xuất bản về văn hóa Trung Hoa, châu Á đại lục, Nhật, Thổ Nhĩ Kỳ, các nước Balkan ở châu Âu bằng cách sáng lập, phát triển, hỗ trợ, duy trì các tổ chức giáo dục hoặc hợp tác và liên kết với các tổ chức giáo dục khác.
Nói cách khác, HYI không hoạt động bằng tiền của Trung Quốc và cũng không hoạt động theo nghị trình của Trung Quốc hay nói cách khác không “thân Trung Quốc” như một số người nhầm tưởng
"Visiting scholars" khác "postdoc" hay "research fellows" chỗ nào?
Mọi người cũng tranh luận quanh các khái niệm như "visiting scholars", "postdoc" và "research fellows". Cái nào hơn, khác nhau chỗ nào, có sai không khi dùng từ này thay từ kia.
Câu trả lời ngắn gọn là "visiting scholars", "postdocs" hay "research fellows" chẳng khác gì nhau ngoài vấn đề đối tượng và thời gian. Cả 3 dạng này đều theo kiểu một đơn vị đứng ra cấp ngân quỹ để một cá nhân qua trường đại học hoặc tổ chức nghiên cứu khác để nghiên cứu hoặc làm việc trong thời gian nhất định.
Lưu ý, cả 3 đều không phải chương trình học, và vì thế, đều không cấp bằng. Các học giả đi theo các chương trình này đều có thời gian tự do để nghiên cứu, phối hợp nghiên cứu, hoàn thành các công trình nghiên cứu đang phát triển của mình, tham dự các hội thảo hội nghị khoa học, thiết lập mạng lưới quan hệ với các nhà khoa học khác…
Khác biệt cơ bản giữa các chương trình này là đối tượng và thời gian của chương trình. Thí dụ, "postdoc" (nghiên cứu sau tiến sĩ) dành cho những người đã tốt nghiệp tiến sĩ trong một thời gian nhất định (thường là dưới 5 năm sau khi tốt nghiệp) và các chương trình "postdoc" thường kéo dài 2 năm.
"Visiting scholars" hay "research fellows" áp dụng cho các học giả theo nghĩa rộng hơn. Chương trình thường ngắn hơn, ví dụ 10 tháng theo chương trình của HYI. "Research fellowships" có thể rất ngắn (6 tháng) hoặc dài hơn. Ví dụ, "Humboldt research fellowship" cho từ 6 tháng đến 2 năm.
Nói nôm na, những người đi theo các chương trình này thường vì thiếu một số thứ gì đó. Thí dụ, họ thiếu cơ hội cọ xát, làm việc với các chuyên gia hàng đầu trong ngành nghiên cứu của mình, thiếu thiết bị, máy móc thí nghiệm hoặc thiếu tiền để làm nghiên cứu.
Thời mới tốt nghiệp Ph.D. từ UT-Austin, tôi cũng được trao cơ hội làm "postdoc" 2 năm ở ĐH Southern California (USC - trường top đầu nước Mỹ).
Tuy nhiên, lương làm "postdoc" thấp. Hơn nữa, sau đó, tôi có công việc ngay nên không có lý do gì ở đó thêm 2 năm nên không nhận.
TS Trần Vinh Dự nhận bằng cử nhân Kinh tế & Toán học từ ĐH Quốc gia Hà Nội. Ông học tiến sĩ tại ĐH Texas ở Austin (Mỹ).
Ông từng là Chủ tịch trường CĐ Nghề Việt Mỹ (VATC), Chủ tịch Trung tâm Quốc tế của ĐH Broward College (Mỹ) tại Việt Nam.
Hiện tại, TS Trần Vinh Dự là Phó tổng giám đốc, lãnh đạo dịch vụ Chiến lược và Giao dịch Tài chính (SaT), Công ty Cổ phần Tư vấn EY Việt Nam.